Sáng 4/8, tại Hà Nội, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp cùng Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tổ chức hội thảo "Vai trò của tre nguyên liệu đối với sự phát triển các chuỗi giá trị sản phẩm tre Việt Nam".
Tổng quan về cây tre Việt Nam, theo bà Nguyễn Thị Hoàng Yến – Phó Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và phát triển nông thôn (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), hiện tổng diện tích tre Việt Nam khoảng 1.592.205 ha phân bố hầu hết tại các tỉnh trên cả nước, có 37/63 tỉnh có diện tích trên 10.000 ha. Với 6,5 tỷ cây, hàng năm khai thác 500 – 600 triệu cây, khoảng 2,5-3 triệu tấn. Sản phẩm chính gồm nguyên liệu thô/vật liệu xây dựng; chiếu/mành; tre đan; dụng cụ gia đình… Hiện, mỗi năm Việt Nam xuất khẩu sản phẩm từ tre khoảng 300 – 400 triệu USD, trong đó, thị trường xuất khẩu chính gồm EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Trung Quốc…
Mặc dù cây tre có nhiều ý nghĩa trong sinh kế gia đình và kinh tế quốc dân; hấp thụ các bon và chống biến đổi khí hậu; sử dụng nguyên liệu “xanh” thay cho gỗ tự nhiên và hợp chất hóa học; phát triển du lịch sinh thái và cảnh quan kiến trúc; lưu giữ và bảo tồn các giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, ngành tre Việt Nam cũng đang đối diện với những khó khăn trong phát triển bền vững.
Theo bà Nguyễn Thị Hoàng Yến, hiện nay có rất ít nguồn giống tốt và đang có dấu hiệu suy thoái giống. Diện tích đang bị thu hẹp, trình độ canh tác thấp, quy mô sản xuất manh mún, nhỏ lẻ; hạ tầng phục vụ sản xuất chưa được đầu tư; công nghệ chế biến lạc hậu so với thế giới; thiếu chính sách hỗ trợ phát triển và sản xuất kinh doanh; vốn đầu tư ban đầu cao, quy mô sản xuất manh mún, nhỏ lẻ; sản phẩm lưu thông, tiêu thụ trên thị trường nội địa chủ yếu là sản phẩm thô, tươi; sản phẩm còn chưa đa dạng, chưa quan tâm đến quản lý chất lượng; thiếu sự gắn kết giữa các tác nhân trong chuỗi cả về chiều dọc và chiều ngang; công tác xúc tiến thương mại, quảng bá, giới thiệu tre còn yếu và thiếu thông tin thị trường.
Đặc biệt, chưa có một tiêu chuẩn và hành hàng pháp lý riêng cho việc trồng, chế biến và sử dụng nguyên liệu tre trong hoạt động kinh tế tại Việt Nam. Đây cũng là rào cản lớn khiến chuỗi ngành hàng tre chưa thể kết nối và phát huy hết tiềm năng.
Theo bà Nguyễn Thị Hoàng Yến, cần bảo tồn giá trị văn hóa của cây tre Việt Nam và phát huy các giá trị kinh tế của các sản phẩm làm từ tre. Đồng thời, đa dạng các sản phẩm làm từ tre và sản xuất tre làm vật liệu thay thế các sản phẩm khác như gỗ, hợp chất hóa học. Xây dựng các vùng nguyên liệu tập trung được cấp chứng chỉ để xuất khẩu.
Tại hội thảo, các đại biểu cũng đã xác định rõ thêm về vai trò, vị trí giá trị của cây tre Việt Nam. Cây tre Việt Nam không những có giá trị về văn hóa truyền thống làng xã, ứng phó với biến đổi khí hậu mà đang có giá trị kinh tế trong cơ chế thị trường hiện nay.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Trần Thanh Nam đánh giá, cây tre hàng năm mang lại giá trị xuất khẩu khoảng 300-400 triệu USD/năm, còn giá trị sử dụng trong nước thì chưa tính được. Người nông dân trồng tre hiện nay đang bị áp lực bởi có nhiều cây trồng khác có giá trị kinh tế cao như: cây ăn quả, nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi. Để phát triển ngành hàng tre, ngay từ bây giờ doanh nghiệp cùng chính quyền địa phương và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xây dựng những vùng nguyên liệu lớn đáp ứng yêu cầu sản xuất, chế biến, xuất khẩu.
“Để hình thành chuỗi giá trị kêu gọi doanh nghiệp vào đầu tư phải xác định được vùng nguyên liệu và sự liên kết. Đây là những vấn đề mà doanh nghiệp, người sản xuất và chính quyền các địa phương phải cùng vào cuộc thì mới phát huy được giá trị cây tre Việt Nam”, Thứ trưởng Trần Thanh Nam chỉ ra.