Diễn đàn Công nghệ và Năng lượng năm 2023 lần thứ 6 tập trung trao đổi về thực trạng, tiềm năng, những cơ hội, thách thức cũng như các giải pháp nhằm nâng cao tỷ lệ nội địa hóa trong ngành năng lượng tái tạo (NLTT) Việt Nam.
Phát biểu tại diễn đàn, bà Trần Thị Hồng Lan, Phó cục trưởng Cục Ứng dụng và Phát triển công nghệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) cho biết: Kể từ sau khi Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tuyên bố cam kết của Việt Nam về đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 tại COP26 (năm 2021), Đảng và Nhà nước đã có nhiều hành động cụ thể triển khai quyết liệt các hành động một cách hiệu quả nhằm đạt mục tiêu này. Những hành động đã và đang triển khai thực hiện được Thủ tướng Chính phủ công bố trong khuôn khổ Hội nghị COP28 tại Dubai, ngày 2-12-2023. Trong đó, Chính phủ đã tập trung xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện Chiến lược biến đổi khí hậu; Chiến lược tăng trưởng xanh; Quy hoạch điện VIII tiến đến năng lượng tái tạo là chủ đạo; Phát triển công nghiệp năng lượng tái tạo và xây dựng hệ sinh thái năng lượng tái tạo (như nhân lực, nguồn lực, quy hoạch, cơ sở, vật chất…).
Việt Nam trở thành thị trường sôi động bậc nhất khu vực châu Á - Thái Bình Dương và dẫn đầu Đông Nam Á trong lĩnh vực phát triển điện gió và điện mặt trời. Tính đến cuối năm 2022, tổng công suất nguồn điện toàn hệ thống đạt 79.250MW, trong đó tổng công suất các nguồn điện năng lượng tái tạo (điện gió, điện mặt trời) đạt khoảng 20.165MW, chiếm tỷ trọng 25,4%. Trong Quy hoạch điện VIII, Chính phủ ưu tiên phát triển mạnh các nguồn năng lượng tái tạo phục vụ sản xuất điện, nguồn điện này sẽ chiếm tỉ lệ khoảng 30,9 - 39,2% vào năm 2030.
Tại diễn đàn, các chuyên gia đánh giá, bên cạnh những kết quả đạt được thì tỷ lệ nội địa hóa chuỗi cung ứng cũng như sự tham gia sâu của các doanh nghiệp Việt Nam trong việc cung cấp các dịch vụ cho lĩnh vực năng lượng tái tạo (điện gió, điện mặt trời) còn thấp.
Bà Vũ Chi Mai, Giám đốc Dự án Năng lượng sạch, chi phí hợp lý và an ninh năng lượng cho các nước Đông Nam Á (CASE) phát biểu: Việt Nam có tiềm năng thúc đẩy thị trường nội địa hóa, tỷ lệ sẽ tăng từ 45% lên gần 80% đối với điện mặt trời, từ 37% lên 55% đối với điện gió, vào năm 2050. Giá trị nội địa hóa có thể đạt tới 80 tỷ USD, chiếm 50% tổng tiềm năng thị trường.
Song điện gió trên bờ hiện Việt Nam không có nhà máy sản xuất nacelle, hub và cánh quạt, chưa sản xuất được cáp ngầm biển. Các nhà cung cấp cáp hiện tại có thể mở rộng nhà máy để cung cấp cáp ngầm cho điện gió ngoài khơi nhưng đối mặt với áp lực cạnh tranh mạnh mẽ từ các nhà cung cấp khác ở châu Á.
Về điện mặt trời, tấm quang điện đạt gần 55% tổng suất đầu tư dự án, song tỷ lệ nội địa còn hạn chế. Hiện mới có 8 nhà máy sản xuất với tổng công suất ước tính khoảng 10-20 GW/năm, chủ yếu xuất khẩu.
Chia sẻ kinh nghiệm từ Indonesia, ông Fabby Tuwina, Giám đốc điều hành Viện Cải cách Dịch vụ thiết yếu Indonesia (IESR) cho biết Indonesia đã đặt mục tiêu nội địa hóa trong phát triển pin mặt trời đạt 40% đến năm 2030. Việc nội địa hóa trong phát triển điện mặt trời giúp tạo việc làm xanh và giảm nhập khẩu từ nước ngoài. Ngành điện mặt trời có thể tạo ra 1.300 việc làm trong lĩnh vực sản xuất, chế tạo trên mỗi gigawatt công suất điện tạo ra. Bên cạnh nâng cao năng suất và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước, các mục tiêu thúc đẩy hàm lượng nội địa hóa nhằm đáp ứng nhu cầu điện năng và thực hiện mục tiêu năng lượng tái tạo theo chính sách năng lượng quốc gia.
Dù tiềm năng thị trường điện mặt trời rất lớn, ước tính vốn đầu tư hàng năm đạt 2-7 tỷ USD đến năm 2030, đại diện IESR cho biết có những thách thức đáng kể. Điện mặt trời mái nhà hạn chế công suất lắp đặt chỉ dưới 15% làm thu hẹp thị trường của tấm quang năng trong nước. Các sản phẩm sản xuất trong nước chỉ có 5% được đưa ra thị trường.
Từ bài học kinh nghiệm của Indonesia, ông gợi ý cần xây dựng lộ trình cụ thể nhằm cung cấp đủ tín hiệu thị trường để phát triển ngành công nghiệp sản xuất tấm quang năng. Tiếp theo cần sự hỗ trợ của ngành công nghiệp hạ nguồn cung cấp nguyên liệu thô để giảm sự phụ thuộc vào nhập khẩu và tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm cuối cùng.
Chia sẻ về định hướng phát triển hệ sinh thái công nghiệp năng lượng tái tạo, ông Nguyễn Ngọc Hưng, Viện Năng lượng, Bộ Công thương, cho biết theo Quy hoạch Điện VIII xác định hình thành các chuỗi từ sản xuất, truyền tải và tiêu thụ điện; công nghiệp chế tạo thiết bị, phát triển hệ sinh thái công nghiệp năng lượng tái tạo tại các khu vực nhiều tiềm năng như Bắc Bộ, Nam Trung Bộ, Nam Bộ.
Phân tích về khả năng nội địa hóa với dự án điện gió ngoài khơi, ông Hưng cho biết tỷ lệ này gần 40% cho hạng mục gồm quản lý dự án, cung cấp phần móng, đường dây truyền tải, trạm biến áp trên bờ và ngoài khơi, cảng xây dựng và vận hành bảo trì. Ông đề xuất cần có quy hoạch rõ chiến lược và hoàn thiện minh bạch thủ tục, giá bán điện hấp dẫn, tập trung nghiên cứu, phát triển lĩnh vực ưu tiên trong chuỗi cung ứng thiết bị và đầu tư cơ sở hạ tầng.
Tại phiên tọa đàm, các diễn giả đã cùng nhau chia sẻ về thực trạng của ngành NLTT, thực tế tình hình nội địa hóa trong ngành hiện nay, những khó khăn, thách thức của các doanh nghiệp trong nước khi muốn tham gia chuỗi cung ứng. Theo đó, bên cạnh vấn đề là chính sách, khung pháp lý cho ngành NLTT – yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của ngành, việc nội địa hóa trong ngành còn gặp một số thách thức liên quan đến nguồn lực công nghệ, nhân lực chất lượng cao…
Các đại biểu cũng lần lượt đưa ra các khuyến nghị, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao tỷ lệ nội địa hóa trong ngành NLTT. Trong đó, đứng từ góc độ của một doanh nghiệp tiên phong trong ngành, ông Phạm Đăng An – Phó Tổng Giám đốc Vũ Phong Energy Group – đã chia sẻ về tính chủ động của các doanh nghiệp, không chỉ hướng tới thị trường nội địa mà còn có thể tận dụng xu hướng phát triển NLTT trên toàn cầu, hay trước hết là ở ngay trong khu vực. Ông Đăng An cũng gợi mở hướng liên kết chuỗi ung ứng năng lượng sạch – giao thông xanh để có thể vừa thúc đẩy sự phát triển của cả ngành NLTT, mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực năng lượng và giao thông vừa có thể tiên phong trong chuỗi cung ứng này, cạnh tranh với các đơn vị quốc tế…