Sản xuất công nghiệp tháng 7/2024 duy trì ổn định, ước tăng 1,72% so với tháng trước và tăng 14,21% so với cùng kỳ năm 2023. Tính chung 7 tháng năm 2024, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 14,28% so với cùng kỳ năm trước - mức tăng cao nhất từ năm 2019 đến nay; trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 14,42%.
Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 7/2024 tăng 1,72% so với tháng trước và tăng 14,21% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, ngành khai khoáng giảm 3,70%; ngành chế biến, chế tạo tăng 1,73%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt tăng 0,32%; cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 2,11%.
Chỉ số sản xuất công nghiệp bảy tháng năm 2024 ước tăng 14,28% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 14,42%, đóng góp 14,01 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 3,98%, đóng góp 0,09 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 118,56%, đóng góp 0,27 điểm phần trăm; ngành khai khoáng giảm 23,21%, làm giảm 0,09 điểm phần trăm.
Một số ngành công nghiệp cấp II có chỉ số tăng so với cùng kỳ năm trước: chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa (trừ giường, tủ, bàn, ghế), sản xuất sản phẩm từ rơm, rạ và vật liệu tết bện tăng 12,42%; sản xuất chế biến thực phẩm tăng 15,57%; sản xuất trang phục tăng 18,60%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 28,85%. Một số ngành có chỉ số sản xuất giảm: dệt giảm 0,08%; sản xuất đồ uống giảm 7,63%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy giảm 9,15%; sản xuất thiết bị điện giảm 29,08%.
6 tháng đầu năm 2024, ngành điện tử ghi nhận chỉ số sản xuất công nghiệp của ngành sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 8,6% so với cùng kỳ năm 2023, trị giá sản xuất linh kiện điện thoại ước đạt 248,2 nghìn tỷ đồng, tăng 6,6% so với cùng kỳ năm 2023(*). Tính chung 7 tháng đầu năm 2024, chỉ số sản xuất công nghiệp toàn ngành tăng 11,1% so với cùng kỳ năm trước. Ngành điện tử tiếp tục đứng đầu trong các ngành công nghiệp chế biến chế tạo về kim ngạch xuất khẩu, chiếm trên 30% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước trong 7 tháng đầu năm 2024, với tốc độ tăng so với cùng kỳ năm trước lần lượt là 30% đối với mặt hàng điện tử, máy tính và linh kiện và 12,3% đối với mặt hàng điện thoại và linh kiện. Tính chung 2 nhóm ngành hàng chủ lực này, tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành điện tử 7 tháng đạt 72,313 tỷ Đô la Mỹ, xuất siêu trên 8 tỷ Đô la Mỹ, đóng góp đáng kể vào cân bằng cán cân thương mại ngoại hối cho Quốc gia, khi toàn quốc xuất siêu trên 14 tỷ Đô la Mỹ.
Bảng 1. Trị giá một số mặt hàng xuất khẩu 7 tháng năm 2024 |
Nguồn: Tổng Cục Thống kê Việt Nam (GSO) |
|
|
|
|
|
Ước tính |
Tốc độ tăng so với |
(Triệu USD) |
cùng kỳ năm trước (%) |
Các mặt hàng đạt giá trị trên 5 tỷ USD |
|
|
Điện tử, máy tính và linh kiện |
39.867 |
30 |
Điện thoại và linh kiện |
32.446 |
12,3 |
Máy móc thiết bị, dụng cụ PT khác |
27.656 |
19 |
Dệt, may |
19.873 |
4,2 |
Giày dép |
12.818 |
10,1 |
Gỗ và sản phẩm gỗ |
8.876 |
23,3 |
Phương tiện vận tải và phụ tùng |
8.411 |
2,5 |
Sắt thép |
5.475 |
9,8 |
Thủy sản |
5.293 |
7,3 |
|
|
|
Sản phẩm công nghiệp: Một số sản phẩm 7 tháng đầu năm có khối lượng tăng so với cùng kỳ năm trước như: Gạo xay xát tăng 3,80%; quần áo may sẵn tăng 27,70%; giày, dép tăng 28,90%; gỗ cưa hoặc xẻ tăng 1,62%; sản phẩm mây tre đan các loại tăng 21,22%; bao bì và túi bằng giấy tăng 7,69%; sản phẩm in tăng 28,34%; cửa ra vào, cửa sổ bằng sắt, thép tăng 19,36%; bàn ghế bằng gỗ các loại tăng 16,15%. Ngược lại, một số sản phẩm có khối lượng giảm như: Sợi các loại giảm 13,06%; vải các loại giảm 5,96%; khăn các loại giảm 6,12%; phụ tùng xe có động cơ giảm 0,55%.
Bảng 2. Trị giá một số mặt hàng nhập khẩu 7 tháng năm 2024 |
Nguồn: Tổng Cục Thống kê Việt Nam (GSO) |
|
Ước tính |
Tốc độ tăng so với |
(Triệu USD) |
cùng kỳ năm trước (%) |
Các mặt hàng đạt giá trị trên 5 tỷ USD |
|
|
Điện tử, máy tính và LK |
58.822 |
28,1 |
Máy móc thiết bị, DC PT khác |
26.404 |
14,6 |
Vải |
8.493 |
14,8 |
Sắt thép |
6.917 |
23,4 |
Chất dẻo |
6.405 |
17,5 |
Kim loại thường khác |
5.479 |
27,2 |
Điện thoại và linh kiện |
5.440 |
26,9 |
Xăng dầu |
5.086 |
4 |
Dầu thô |
5.045 |
19,1 |
Than đá |
5.013 |
15,5 |
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 7/2024 tăng 2,95% so với tháng trước. Bảy tháng năm 2024, chỉ số này giảm 8,22% so với cùng kỳ năm trước; trong đó một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng: sản xuất trang phục tăng 19,50%; in, sao chép bản ghi các loại tăng 93,39%; sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất tăng 164,44%. Ngược lại, một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm: sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy giảm 7,99%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 7,69%.
Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tại thời điểm 31/7/2024 tăng 33,25% so với cùng thời điểm năm trước. Một số ngành có chỉ số tồn kho giảm so với cùng thời điểm năm trước: sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy giảm 58,04%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 6,71%. Ở chiều ngược lại, một số ngành có chỉ số tồn kho tăng: dệt tăng 75,52%; sản xuất trang phục tăng 21,42%; sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất tăng 90,32%. Lượng hàng tồn kho tăng chủ yếu do thời gian sản xuất các đơn hàng lớn kéo dài.
Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp sản xuất công nghiệp tháng 7/2024 tăng 0,11% so với tháng trước. Bảy tháng năm 2024, chỉ số này tăng 4,01% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, loại hình doanh nghiệp nhà nước giảm 16,27%, doanh nghiệp ngoài nhà nước giảm 0,03% và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 8,79%.
(*) Nguồn: tính toán từ số liệu của Tổng Cục Hải quan Việt Nam. |