Ngày 18/7 tại Hà Nội đã diễn ra diễn đàn đa phương “Thúc đẩy bình đẳng giới trong kỷ nguyên số và hội nhập” do Bộ Lao động – Thương Binh và Xã hội (LĐ-TB&XH) tổ chức. Diễn đàn quy tụ sự tham gia của trên 300 đại biểu đến từ các cơ quan Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức quốc tế, các viện nghiên cứu, trường đại học, các địa phương, các tổ chức phi chính phủ, doanh nghiệp và các chuyên gia, các nhà khoa học.
Phát biểu tại diễn đàn đa phương, Thứ trưởng Bộ LĐ-TB&XH Nguyễn Thị Hà nhấn mạnh, bình đẳng giới là một mục tiêu quan trọng cần hướng đến không chỉ ở Việt Nam mà là của tất cả các quốc gia trên thế giới, là một trong những tiêu chí đánh giá sự phát triển của xã hội. Việt Nam được các tổ chức quốc tế đánh giá là quốc gia xóa bỏ khoảng cách giới nhanh nhất trong 20 năm qua. “Tỷ lệ phụ nữ tham gia thị trường lao động khá cao đạt trên 70%. Phụ nữ làm chủ doanh nghiệp và chủ cơ sở kinh doanh đạt 31,6%. Các chỉ số phát triển giới, chỉ số khoảng cách giới và chỉ số bất bình đẳng giới đều đạt ở mức trung bình cao. Theo Báo cáo Phát triển con người năm 2016, Việt Nam được xếp ở nhóm 1 trong 5 nhóm xếp hạng về bình đẳng giới - nhóm các quốc gia có tình trạng bình đẳng giới tốt nhất trên thế giới” - Thứ trưởng Nguyễn Thị Hà nhấn mạnh.
TS. Đào Quang Vinh, Viện trưởng Viện Khoa học Lao động và Xã hội cho biết, về tham chính, tỷ lệ nữ giới tham gia Quốc hội khóa XIII đạt 24,4%, đưa Việt Nam nằm trong nhóm nước có tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội cao ở khu vực và thế giới. Đặc biệt, về giáo dục - đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, Việt Nam đã đạt được những thành tựu như khoảng cách giới trong lĩnh vực này gần như được xóa bỏ khi không có sự chênh lệch giữa trẻ em trai và trẻ em gái, phụ nữ và nam giới tham gia hệ thống giáo dục và đào tạo. Thậm chí ở cấp THCS, THPT và đại học, tỷ lệ nữ giới nhập học còn cao hơn nam giới.
Bà Helle Buchhave, Điều phối viên về Giới khu vực Đông Á, Thái Bình Dương cho biết: “Hệ thống chính sách pháp luật tại Việt Nam hiện nay có thể tác động đến vấn đề giới ở nhiều lĩnh vực, điển hình là việc chủ sử dụng lao động thích thuê lao động là nam giới hơn nữ giới; một số công việc không sử dụng lao động nữ do các nhà hoạch định chính sách thấy có hại cho chức năng làm mẹ đối với nữ giới được quy định tại Bộ luật Lao động (sửa đổi) hay khoảng cách về tiếp cận đai trong Luật Đất đai”.
Mặc dù đạt nhiều thành tựu, nhưng Việt Nam cũng đối mặt nhiều thách thức về bình đẳng giới. Sự tham gia của phụ nữ trong quản lý và lãnh đạo ở các cấp còn thấp; trình độ chuyên môn kỹ thuật của nữ vẫn thấp hơn so với nam giới; lao động nữ có thu nhập bình quân thấp hơn nam giới khoảng 10%; lao động nữ là đối tượng dễ bị rủi ro và tổn thương hơn khi doanh nghiệp có nhu cầu cắt giảm nhân công. Có tới 98% số doanh nghiệp do nữ làm chủ được nêu trên có quy mô vừa, nhỏ và siêu nhỏ, tập trung vào lĩnh vực thương mại, lợi nhuận thấp. Nữ chủ doanh nghiệp còn nhiều hạn chế về trình độ chuyên môn, kỹ năng quản trị doanh nghiệp, khó khăn trong tiếp cận nguồn tín dụng.
Bên cạnh đó, lao động nữ vẫn tập trung làm việc nhiều nhất trong nhóm ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản. Họ thường có vị thế việc làm kém hơn lao động nam. Phụ nữ vẫn phải làm các công việc chăm sóc gia đình không hưởng lương nhiều hơn nam giới 105 phút mỗi ngày, 12 buổi mỗi tuần, tương đương 80 ngày mỗi năm. Như vậy, họ vẫn đang mang “gánh nặng kép”, khi vừa phải làm việc, vừa chịu trách nhiệm chăm lo cho gia đình.
Ngoài ra, phụ nữ còn gặp phải những vấn đề khác như bạo lực gia đình, bóc lột lao động, xâm hại tình dục. Một trong những nguyên nhân của tình trạng bất bình đẳng giới hiện nay được xác định là những định kiến về giá trị và cách suy nghĩ truyền thống của xã hội về cách ứng xử và vai trò của nam giới và phụ nữ. Những suy nghĩ, định kiến này đang cản trở những tiềm năng phát triển của cả nam giới và phụ nữ.
Kỷ nguyên số và hội nhập với sự ứng dụng rộng rãi các tiến bộ công nghệ đã nhanh chóng giải phóng con người khỏi những công việc nặng nhọc, những công việc giải đơn có tính lặp lại, cũng như các công việc nội trợ. Kỷ nguyên số đang mở ra nhiều cơ hội thúc đẩy bình đẳng giới. Các doanh nghiệp cần trở nên nhanh nhẹn hơn để có thể nắm bắt các cơ hội và hình thức kinh doanh mới linh hoạt. Người lao động cũng cần phải có kỹ năng, sự hiểu biết, trau dồi chuyên môn nghiệp vụ và khả năng thích ứng để giúp tạo nên một môi trường làm việc linh hoạt hơn.