Sáng 12/3, VCCI kết hợp với Ngân hàng Thế Giới (WB) tổ chức buổi công bố báo cáo trực tuyến về “Tác động của dịch bệnh COVID-19 đối với doanh nghiệp Việt Nam: Một số phát hiện chính từ điều tra doanh nghiệp năm 2020”.
Công bố Báo cáo được xây dựng dựa trên kết quả khảo sát hơn 10.000 doanh nghiệp tại 63 tỉnh, thành phố trên cả nước trong năm vừa qua. Báo cáo nhằm nhận diện tác động của dịch COVID-19 lên hoạt động sản xuất kinh doanh và khả năng ứng phó, chống chịu của các doanh nghiệp đối với đại dịch toàn cầu này. Bên cạnh đó, Báo cáo còn tìm hiểu đánh giá và kỳ vọng của doanh nghiệp về những chính sách của Nhà nước hỗ trợ vượt qua khó khăn do COVID-19.
Phát biểu khai mạc tại Hội thảo trực tuyến, ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch VCCI nói: “Ở thời điểm chúng ta tham dự buổi Hội thảo này, toàn cầu vẫn đang gồng mình trong cuộc chiến chống lại đại dịch COVID-19. Tính đến sáng nay 12/03/2021, theo Tổ chức Y tế Thế giới , toàn cầu ghi nhận khoảng 117 triệu ca bệnh, trong đó xấp xỉ 2,6 triệu người đã tử vong. Dù vắc-xin đang được gấp rút tiêm chủng ở nhiều quốc gia, nhân loại vẫn đứng trước những rủi ro to lớn trước diễn biến khó lường của đại dịch, đặc biệt là sự xuất hiện những biến chủng nguy hiểm của vi-rút”.
Các chuyên gia kinh tế tham dự hội thảo đều đánh giá cao những chính sách kịp thời của Chính Phủ ở các gói Hỗ trợ doanh nghiệp. Nhưng việc thực thi để giúp doanh nghiệp tiếp cận các nguồn hỗ trợ đặc biệt là các khoản vay vốn, tín dụng lại có rất nhiều rào cản gây khó khăn nên chưa thực sự hiệu quả.
Ông Nguyễn Văn Thời Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh Thái Nguyên: Chính đã lên tiếng nêu rõ vấn đề này: “Chính phủ Việt Nam đã rất nhanh nhạy trong việc ban hành các chính sách nhưng việc thực thi có phần hạn chế. Các cơ quan bộ ngành luôn đưa ra các điều kiện ràng buộc nên rất ít doanh nghiệp tiếp cận được sự hỗ trợ từ chính sách, đặc biệt là các gói tín dụng”.
“Chính phủ đang lập quỹ hỗ trợ để bảo lãnh cho các ngân hàng. Nếu chúng tác tháo gỡ được việc hỗ trợ vốn lưu động cho các doanh nghiệp thì tôi tin sự phục hồi của các doanh nghiệp sẽ rất nhanh,” Ông Thời nói. “Năm 2021, Tôi nghĩ chính phủ nên tiếp tục duy trì các gói hỗ trợ về thuế, thu nhập DN, thuế đất, bảo hiểm đến năm 2022”.
“Trong Nguy có Cơ” và sự ứng phó của các doanh nghiệp Việt Nam giữa đại dịch Covid – 19.
Ông Nguyễn Văn Thời phát biểu: “Doanh nghiệp dệt may TNG bị gián đoạn nguồn cung cấp và cả nguồn bán hàng, không thu được tiền do công ty nhập khẩu bên nước ngoài phá sản. Doanh nghiệp chúng tôi chuyển sang may khẩu trang Nano kháng khuẩn nên 2020 doanh thu chỉ giảm 3% và vẫn đảm bảo được số lượng nhân lực lao động”.
Ông Jacques Morissets Chuyên gia kinh tế Trưởng ngân hàng Thế giới tại Việt Nam đưa ra những đánh giá tích cực: “Tuy bị tác động của Covid – 19 nhưng VN đã đạt được thành tích tốt, tăng trưởng kinh tế gần 3% trong năm 2020,” Ông Jacques Morissets nói. “Đây là thành tích tốt so với nhiều nước khác trên thế giới. . Có rất nhiều tiêu cực trong khủng hoảng nhưng cũng có những cơ hội nắm bắt để chúng ta cải thiện. Và tôi nghĩ rằng Việt Nam cũng đang chứng tỏ khả năng nắm bắt “cơ” trong “nguy”.
Ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng Ban Pháp chế VCCI nêu báo cáo dựa trên kết quả điều tra các doanh nghiệp trên cả 63 tỉnh thành phố tạo nên bức tranh toàn cảnh, công phu về ảnh hưởng của Covid – 19 đối với doanh nghiệp trên toàn quốc.
Ông Tuấn phát biểu: “Chúng tôi khảo sát có đến 87,2 % doanh nghiệp bị ảnh hưởng tiêu cực bởi Covid – 19. Trong đó, rất tiêu cực lên đến 14,8 % ở doanh nghiệp tư nhân, 13,4% ở doanh nghiệp FDI”. Một số ngành nghề khác lại hưởng lợi như Y tế, chăm sóc sức khỏe... nhưng tỷ lệ khiêm tốn chỉ 0,5% doanh nghiệp tư nhân, 0,2 % đối với doanh nghiệp FDI”.
Những con số cho thế sự khó khăn trên là lời lý giải tại sao năm 2020 Việt Nam lại tăng trưởng GDP thấp nhất và số lượng doanh nghiệp rút khỏi thị trường đạt kỷ lục. Ở tầm nhìn dài hạn, theo nhiều dự báo, đại dịch Covid-19 vẫn tiếp tục có những tác động nghiêm trọng trên phạm vi toàn cầu và chỉ có thể loại trừ hoàn toàn sau 4 -5 năm nữa. Vì vậy, Việt Nam cần có những giải pháp giúp việc thực thi chính sách hỗ trợ doanh nghiệp hiệu quả hơn trong thời gian tới. Ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch VCCI phát biểu:
“Thực thi bao giờ cũng là khâu yếu nhất. Vì vậy cần ưu tiên cải thiện năng lực thực thi. Để nâng cao hiệu quả thực thi, các bộ, ngành và chính quyền các địa phương cần tăng cường phổ biến, tuyên truyền chính sách hỗ trợ để tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp tiếp cận được các gói hỗ trợ đã ban hành. Trong đó, cần có những hướng dẫn cụ thể, chi tiết và đẩy đủ về các thủ tục, quy trình thực hiện theo hướng đơn giản, dễ thực hiện đối với các doanh nghiệp.
Đối với các chính sách đã ban hành, các bộ, ngành, chính quyền địa phương cần chủ động nắm bắt tình hình triển khai, đặc biệt là những vướng mắc, bất cập trong quá trình thực hiện để điều chỉnh hoặc kiến nghị điều chỉnh kịp thời và có cách thức hỗ trợ phù hợp đối với các doanh nghiệp ở từng ngành, lĩnh vực và từng giai đoạn, chú trọng các doanh nghiệp thuộc các ngành bị tổn thương nặng nề bởi dịch Covid-19. Cần quan tâm hơn nữa các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, siêu nhỏ bởi khả năng chống chịu kém của nhóm doanh nghiệp này. Nghiên cứu áp dụng thêm một số biện pháp mà các quốc gia khác hiện đang áp dụng như hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp duy trì được tỷ lệ người lao động cao; hỗ trợ chi phí đào tạo tay nghề, nâng cao trình độ cho người lao động.
Cần xây dựng chính sách phát triển công nghiệp, dịch vụ hỗ trợ theo hướng bớt lệ thuộc vào nguồn cung từ bên ngoài, giảm tình trạng gia công đã kéo dài quá lâu, mặt khác cũng tạo thêm giá trị gia tăng và vị thế tốt hơn của Việt Nam trong các chuỗi cung ứng toàn cầu, tạo thêm cơ hội hưởng lợi từ các FTA đòi hỏi hàm lượng xuất xứ nội địa/nội khối cao. Đại dịch Covid-19 đang tạo cho Việt Nam cơ hội làm việc đó, khi các quốc gia đối tác lớn như Nhật, Mỹ, EU, Úc… đang tìm kiếm nơi để chuyển một phần nguồn cung cho các chuỗi của họ ra khỏi các cứ điểm sản xuất chính. Với một số FTA thế hệ mới như CPTPP và EVFTA, Việt Nam càng có cơ hội được chọn, nếu Chính phủ có chính sách, mục tiêu rõ ràng nhằm khuyến khích, tạo điều kiện cho doanh nghiệp Việt Việt Nam và thu hút đầu tư từ các đối tác trên vào những ngành nghề, lĩnh vực ưu tiên.
Có chính sách tạo thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam trụ lại được và có khả năng vượt lên sau dịch Covid-19, đặc biệt về đổi mới sáng tạo, đào tạo nhân lực chất lượng cao, sẵn sàng cho cuộc cạnh tranh mới. Việc này quan trọng không kém việc cứu các doanh nghiệp gặp khó khăn, vì sẽ giúp doanh nghiệp và nền kinh tế sớm vươn lên phục hồi tăng trưởng và bước vào giai đoạn phát triển mới cao hơn. Điều này cũng giúp các doanh nghiệp tìm cơ hội mới trong bối cảnh mới.
Các bộ, ngành có liên quan cần nghiên cứu, kiến nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành các gói chính sách hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi và mở rộng đầu tư kinh doanh cho giai đoạn mới 2021-2025. Theo nhiều dự báo, đại dịch Covid-19 vẫn tiếp tục có những tác động nghiêm trọng trên phạm vi toàn cầu và chỉ có thể loại trừ hoàn toàn sau 4 -5 năm nữa, vì vậy trong thời gian tới cần có những chính sách mang tính dài hạn hơn.
Cuối cùng, cần lan toả và nhân rộng được các mô hình, cách làm tốt trong việc ứng phó với đại dịch Covid-19. Đối với các bộ, ngành, chính quyền địa phương, đó là kinh nghiệm trong việc triển khai hiệu quả các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp. Đối với các hiệp hội doanh nghiệp, cần chia sẻ được cách thức ứng phó hiệu quả dịch Covid-19 từ những doanh nghiệp đã tồn tại và phát triển được trong bối cảnh khó khăn của đại dịch Covid-19, nhất là những bài học về lựa chọn thị trường, đối tác, quan hệ kinh doanh, về đầu tư xây dựng “nội lực” cốt lõi của doanh nghiệp để tăng khả năng chống chịu với các cú sốc. Với những diễn đàn chia sẻ thông tin như vậy, các ngành hàng có thể cùng nhau nhìn lại những gì đã và có thể sẽ xảy ra trong ngành mình, và bàn hướng tăng cường hợp tác, liên kết để đi tới trong tương lai..”.