Theo ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng Ban Pháp chế, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, hiện nay, Bộ Tài nguyên & Môi trường đang xây dựng Dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, trong đó có nội dung về trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất, nhập khẩu về tái chế và xử lý sản phẩm bao bì là chất thải. Quy định này sẽ có nhiều ảnh hưởng đến các tổ chức sản xuất, nhập khẩu các sản phẩm, bao bì thuộc danh mục các sản phẩm, bao bì phải được tái chế, gồm: sản phẩm điện, điện tử, pin, ắc quy, dầu, nhớt, săm, lốp, phương tiện giao thông, máy móc công trình và bao bì các loại…
Chính vì vậy, để đảm bảo tính hợp lý, tính khả thi của quy định, bảo đảm quyền và lợi ích của các bên liên quan, việc tham vấn ý kiến của doanh nghiệp khi xây dựng Dự thảo Nghị định đóng vai trò quan trọng.
Tại hội thảo trực tuyến, ông Phan Tuấn Hùng - Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết, Luật Bảo vệ môi trường số 72/2020/QH14 được Quốc hội thông qua ngày 17/11/2020, Bộ Tài nguyên và Môi trường đang xây dựng Dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường 2020, trong đó có nội dung về trách nhiệm của các nhà sản xuất, nhà nhập khẩu về tái chế và xử lý sản phẩm, bao bì là chất thải quy định tại Điều 54 và Điều 55.
Nguyên tắc cơ bản của cơ chế EPR đã được Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đưa ra. Trong đó có những quy định yêu cầu nhà sản xuất, nhập khẩu phải có trách nhiệm tái chế bao bì đã qua sử dụng với tỷ lệ bắt buộc dựa vào khối lượng hoặc đơn vị bao bì đóng gói sản phẩm mà nhà sản xuất đưa ra thị trường và phải tuân thủ quy cách tái chế bắt buộc. Đối tượng của cơ chế EPR gồm những ngành hàng như: pin và ắc quy, điện và điện tử; săm lốp, dầu nhờn, ô tô và xe máy, bao bì. Và các nhà sản xuất có thể tự mình tổ chức thực hiện tái chế hoặc đóng góp tài chính vào Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam để hỗ trợ tái chế chất thải.
“Những quy định cụ thể về cơ chế ERP đang được Bộ TN&MT xây dựng, hoàn thiện tại Dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020”, ông Phan Tuấn Hùng khẳng định. EPR được định nghĩa là một “cách tiếp cận dưới góc độ chính sách bảo vệ môi trường theo đó trách nhiệm của nhà sản xuất đối với một sản phẩm được mở rộng tới tận giai đoạn thải bỏ trong vòng đời của sản phẩm đó” (Hướng dẫn thực hiện Công ước Basel của Liên Hợp Quốc năm 2019).
Chia sẻ kinh nghiệm của Hàn Quốc trong xây dựng, thực hiện cơ chế EPR, ông Tiến sĩ Kim In Hwan, Cố vấn chính sách môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết: Tại Hàn Quốc, cơ chế EPR được điều chỉnh bởi Đạo luật Khuyến khích Tiết kiệm và Tái chế tài nguyên (2002); Đạo luật Tài nguyên tuần hoàn của chất thải điện tử và các phương tiện giao thông (2007); Đạo luật Kiểm soát Chất thải. Và về nguyên tắc, EPR được hiểu là nhà sản xuất chịu hoàn toàn trách nhiệm trong toàn bộ vòng đời của sản phẩm; Kiểm soát ô nhiễm và an toàn khi sử dụng kéo dài đến cuối vòng đời của sản phẩm.
“Cơ chế này đã được áp dụng thành công ở Hàn Quốc và một số quốc gia Châu Âu khác”, ông Kim In Hwan khẳng định.
Bà Nguyễn Hoàng Phượng, chuyên gia Tư vấn Chính sách và Pháp luật cho rằng, hiện nay, Việt Nam đang gặp một số thách thức khi xây dựng cơ chế EPR, điển hình như: Cơ sở hạ tầng hạ tầng cho quản lý chất thải rắn không theo kịp với tốc độ phát sinh chất thải; Tỷ lệ doanh nghiệp siêu nhỏ và cơ sở sản xuat, kinh doanh quy mô nhỏ (hộ gia đı̀nh) rất lớn; Lượng phế liệu nhập khẩu lớn; Lượng sản phẩm đã qua sử dụng nhập khẩu lớn; Thương mại điện tử phát triển nhanh, bao gồm thương mại xuyên biên giới, dịch vụ vận chuyển đến tận tay người tiêu dùng cuối cùng mà chi phí vận chuyển rẻ hơn trong nước, thậm chí trong cùng tỉnh Lực lượng lao động phi chính thức lớn…
“Vì vậy, khi xây dựng cơ chế EPR chúng ta cần cân nhắc và xác định rõ hơn nhà sản xuất, nhập khẩu có nghĩa vụ gì để đảm bảo người có quyền quyết định cao nhất mới có tác động cả đến thượng nguồn và hạ nguồn của chuỗi sản xuất. Hơn nữa, cần phân loại bao bì, đặc biệt là đối với bao bì dịch vụ - loại bao bì không chứa hàng hóa và chỉ được dùng để chuyển giao hàng hoá cho người tiêu dùng cuối cùng (thường là túi nylon hoặc thùng carton để đóng hàng hoá)….”, bà Hằng nói thêm.
Cũng tại hội thảo, ông Lê Hoàng Khánh Nhựt, Phó Chủ tịch Hiệp hội Cao su Việt Nam cho biết, hiện nay nếu thực hiện việc tự tái chế sản phẩm sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh cho các doanh nghiệp, sản xuất trong nước so với các doanh nghiệp nhập khẩu không có trách nhiệm tự tái chế. Việc tự tái chế giúp các doanh nghiệp giảm giá thành sản phẩm nhờ tăng được sản lượng gia công lốp ô tô đắp, phát triển thêm nhiều sản phẩm từ việc tận dụng các nguyên liệu sau tái chế; Hạn chế sản phẩm nhập khẩu do nhà nhập khẩu không thể thực hiện việc tự tái chế sản phẩm hoặc làm tăng thêm giá thành săm lốp nhập khẩu do phải nộp kinh phí vào Quỹ bảo vệ môi trường để hỗ trợ tái chế sản phẩm…
Sau khi nghe ý kiến đóng góp của các đại biểu, ông Phan Tuấn Hùng khẳng định, đây là những tham vấn vô cùng giá trị, đơn vị soạn thảo Nghị định sẽ tiếp thu và có những chỉnh sửa phù hợp để đảm bảo tính hợp lý, tính khả thi của quy định.