Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp lần thứ tư, công nghệ số đã trở thành yếu tố cốt lõi quyết định sự phát triển bền vững và thịnh vượng của mỗi quốc gia. Việt Nam, với khát vọng vươn lên trở thành một quốc gia tiên phong trong kỷ nguyên số, không thể đứng ngoài xu thế này.
Luật Công nghiệp Công nghệ số (CNCNS) tạo hành lang pháp lý nhằm hiện thực hóa định hướng, mục tiêu chiến lược của Đảng và Nhà nước là đưa công nghiệp công nghệ số trở thành ngành công nghiệp nền tảng trong cơ cấu công nghiệp quốc gia, là động lực chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, và cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân.
Xây dựng chính sách ưu đãi đầu tư phát triển ngành công nghiệp CNCNS, góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế của đất nước
Để ngành công nghiệp công nghệ số trở thành động lực kinh tế chủ đạo với tốc độ tăng trưởng gấp 2-3 lần GDP, Luật CNCNS cùng với các luật như Luật Thuế Thu nhập doanh nghiệp sửa đổi, Luật sửa một số Luật về tài chính và đầu tư được Quốc hội thông qua tại kỳ họp này đã đưa ra các chính sách ưu đãi đồng bộ cho hoạt động CNCNS.
Theo đó, các dự án CNS trọng điểm, bán dẫn, AI được áp dụng chính sách hỗ trợ ưu đãi đầu tư cao nhất của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp, đất đai. Đặc biệt, đối với những dự án các dự án CNS trọng điểm, bán dẫn, AI có quy mô vốn đầu tư 6000 tỷ đồng sẽ được áp dụng cơ chế ưu đãi đặc biệt của nhà nước như: Áp dụng thuế suất 5% trong 37 năm; miễn thuế 06 năm, giảm 50% số thuế phải nộp trong 13 năm tiếp theo; miễn tiền thuê đất, thuê mặt nước 22 năm và giảm 75% tiền thuê đất, thuê mặt nước cho thời gian còn lại. Đây là những chính sách ưu đãi đầu tư đặc thù, vượt trội của ngành CN CNS, các chính sách ưu đãi này chỉ áp dụng đối với các ngành lĩnh vực ưu tiên khác, có quy mô ốn đầu tư từ 30.000 tỷ đồng trở lên.
Bên cạnh cơ chế ưu đai hỗ trợ đầu tư đặc biệt, các dự án CNCNS còn được hỗ trợ tài chính từ ngân sách nhà nước và từ Quỹ đầu tư phát triển; được tăng mức chi bổ sung khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các khoản chi của doanh nghiệp cho R&D (được tính bằng 200% chi phí thực tế),… Thủ tục hành chính được đơn giản hóa thông qua cơ chế phân cấp thẩm quyền thành lập khu CNS tập trung cho UBND cấp tỉnh; áp dụng chế độ ưu tiên hải quan “luồng xanh” cho doanh nghiệp. Nhà nước ưu tiên đầu tư vào hạ tầng thiết yếu như trung tâm dữ liệu, mạng 5G, đồng thời khuyến khích doanh nghiệp tư nhân tham gia phát triển cơ sở hạ tầng hiện đại. Thị trường nội địa được mở rộng bằng cách thúc đẩy sử dụng sản phẩm công nghệ “Make in Vietnam” trong các dự án ngân sách và đặt hàng phát triển công nghệ chiến lược.
Nâng cao giá trị Việt Nam trong ngành CNCNS
Luật CNCNS tập trung nâng cao giá trị Việt Nam trong ngành CN CNS thông qua các giải pháp chiến lược và chính sách đồng bộ nâng cao năng lực doanh nghiệp Việt Nam; đồng thời khuyến khích Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) được chuyển giao công nghệ và hợp tác với doanh nghiệp trong nước thông qua các cơ chế ưu đãi. Doanh nghiệp khởi nghiệp Việt Nam được hỗ trợ kinh phí để mua công nghệ tiên tiến và phát triển mẫu thử, giúp nâng cao năng lực sản xuất sản phẩm “Make in Vietnam”. Các sản phẩm công nghệ số Việt Nam được ưu tiên sử dụng trong các dự án ngân sách nhà nước, đảm bảo thị trường đầu ra ổn định và bền vững. Hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) được hưởng ưu đãi tối đa, bao gồm miễn giảm thuế và hỗ trợ tài chính, nhằm thúc đẩy sáng tạo, đổi mới, giúp sản phẩm Việt Nam không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Chương trình “Make in Vietnam” được Luật CNCNS quy phạm hóa nhằm khuyến khích sáng tạo và sản xuất công nghệ nội địa. Các hoạt động xúc tiến, đào tạo, và hỗ trợ tài chính được triển khai để doanh nghiệp phát triển sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam. Sản phẩm “Make in Vietnam” được ưu tiên trong mua sắm công và hỗ trợ mở rộng thị trường quốc tế, giúp nâng cao năng lực cạnh tranh. Những nỗ lực này không chỉ thúc đẩy sự tự chủ công nghệ mà còn khẳng định vị thế của Việt Nam trong nền kinh tế số toàn cầu
Hình thành lực lượng doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam lớn ngang tầm các nước tiên tiến và đủ số lượng để thực hiên chiến lược phát triển quốc gia số
Nghị quyết 57-NQ/TW đã đặt yêu cầu “Hình thành và phát triển một số doanh nghiệp công nghệ số chiến lược trong nước quy mô lớn để phát triển hạ tầng số, dẫn dắt chuyển đổi số quốc gia và đủ năng lực cạnh tranh quốc tế”. Luật CNCNS xây dựng các cơ chế để thực hiện mục tiêu này.
Nhà nước đặt hàng doanh nghiệp nghiên cứu và phát triển các công nghệ tiên phong, đồng thời hỗ trợ tài chính và xúc tiến thương mại để mở rộng thị trường quốc tế. Doanh nghiệp đầu tư các dự án CN CNS quy mô lớn, công nghệ chiến lược được hưởng cơ chế ưu đãi đặc biệt cao nhất theo quy định pháp luật đầu tư. Bên cạnh đó, để thu hút nhân tài, Luật áp dụng chính sách miễn thuế thu nhập cá nhân trong 5 năm cho chuyên gia công nghệ, cấp visa 5 năm cho chuyên gia nước ngoài, cùng các cơ chế đặc biệt về lương thưởng và môi trường làm việc. Những giải pháp này tạo điều kiện để hình thành các doanh nghiệp CNCNS lớn mạnh, đủ sức dẫn dắt ngành công nghệ số Việt Nam vươn tầm thế giới.
Cùng với phát triển các DN lớn, Luật CN CNS còn hướng tới xây dựng một hệ sinh thái doanh nghiệp CNCNS mạnh mẽ với mục tiêu đạt 150.000 doanh nghiệp vào năm 2035, Luật đưa ra các chính sách hỗ trợ toàn diện. Doanh nghiệp vừa và nhỏ được hỗ trợ chi phí đầu tư hạ tầng, đào tạo nhân lực chất lượng cao, và ưu tiên tham gia đấu thầu các dự án mua sắm công. Về tài chính, Nhà nước hỗ trợ kinh phí đổi mới công nghệ, giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực sáng tạo và cạnh tranh. Các dự án sản xuất CNCNS và doanh nghiệp phụ trợ nhận ưu đãi thuế tương tự khu vực đặc biệt khó khăn, đồng thời thu hút đầu tư nước ngoài để tăng cường năng lực sản xuất. Việc phát triển các khu CNCNS với chính sách ưu đãi hấp dẫn tạo môi trường cho doanh nghiệp khởi nghiệp và phát triển bền vững, góp phần hiện thực hóa mục tiêu chiến lược này.
Xây dựng hành lang pháp lý đầu tiên về trí tuệ nhân tạo
Công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) đang trở thành động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội tại Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số quốc gia. AI hỗ trợ tự động hóa các quy trình trong sản xuất, y tế, giáo dục và dịch vụ công, giúp tăng năng suất và giảm chi phí. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng của AI cũng đặt ra thách thức về đạo đức, an ninh mạng và quyền riêng tư, đòi hỏi một khung pháp lý minh bạch và hiệu quả.
Luật Công nghiệp công nghệ số là hành lang pháp lý đầu tiên tại Việt Nam điều chỉnh cụ thể về AI, đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc thể chế hóa các chủ trương của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Luật này quy định mạnh nguyên tắc phát triển AI, kiểm soát rủi ro trong suốt vòng đời của hệ thống trí tuệ nhân tạo, là một trong những nguyên tắc phát triển, cung cấp, triển khai, sử dụng trí tuệ nhân tạo; yêu cầu về giám sát và kiểm tra đối với hệ thống trí tuệ nhân tạo rủi ro cao, tác động lớn.
Tạo hành lang pháp lý về tài sản số nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế số
Theo báo cáo của một số tổ chức quốc tế thì hơn 1/5 dân số Việt Nam sở hữu tiền mã hóa, đứng thứ hai toàn cầu (Triple-A 2024), xếp thứ ba thế giới về chấp nhận tiền điện tử (Chainalysis 2023). Tuy nhiên, chưa có hành lang pháp lý đối với tiền mã hóa, một loại tài sản số. Luật Công nghiệp công nghệ số đóng vai trò làm cơ sở quan trọng để định hình hành pháp lý đối với tài sản số, đảm bảo quyền sở hữu, giao dịch và bảo mật tài sản số. Đây là một yêu cầu cấp thiết của thực tiễn phát triển của đất nước hiên nay. Ngoài ra, luật còn khuyến khích đổi mới công nghệ, hỗ trợ phát triển các nền tảng blockchain. Đồng thời, bảo vệ người dùng trước các rủi ro như lừa đảo hoặc mất mát tài sản do thiếu quy định. Qua đó, Luật Công nghiệp công nghệ số góp phần xây dựng một hệ sinh thái số minh bạch, bền vững và thúc đẩy kinh tế số phát triển, hướng tới mục tiêu kinh tế số 43 tỷ USD vào 2025.
Quốc hội biểu quyết thông qua Luật Công nghiệp Công nghệ số với 441/445 số phiếu tán thành.
Phát triển ngành bán dẫn Việt Nam và nâng cao vị thế trong chuỗi bán dẫn toàn cầu
Lần đầu tiên công nghiệp bán dẫn được định vị và pháp lý hóa trong hệ thống phát luật. Đây là cơ sở để thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp bán dẫn - một ngành công nghiệp quan trọng, có vai trò, tác động đến rất nhiều ngành lĩnh vực trong kỷ nguyên số ngày nay. Luật CN CNS đã quy định các nguyên tắc phát triển công nghiệp bán dẫn Việt Nam với trọng tâm là phát triển chip bán dẫn có tính đột phá trong các ngành, lĩnh vực; liên kết chặt chẽ với hệ sinh thái bán dẫn toàn cầu; Phát triển công nghiệp bán dẫn phải đồng bộ với công nghiệp điện tử; Khuyến khích thu hút đầu tư nước ngoài, huy động nguồn lực trong và ngoài nước nhằm thúc đẩy phát triển công nghiệp bán dẫn, hướng tới làm chủ công nghệ, thiết kế và sản xuất chip bán dẫn.
Trong đó, Luật CN CNS đã đưa ra cơ chế chính sách đặc thù cho phát triển công nghiệp bán dẫn toàn diện, đầy đủ chuỗi cung ứng từ đầu vào là sản xuất phụ trợ, đến đầu ra là doanh nghiệp điện tử. Đây là cách tiếp cận chính sách mới để nhằm phát triển hệ sinh thái công nghiệp bán dẫn Việt Nam gắn với hệ sinh thái bán dẫn toàn cầu; đưa Việt Nam trở thành một vị trí quan trọng trong chuỗi bán dẫn toàn cầu.
Phát triển hạ tầng công nghiệp công nghệ số hiện đại đồng bộ
Đảng đã xác định phát triển hạ tầng đồng bộ, hiện đại là một trong ba đột phá chiến lược để phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, trong đó hạ tầng công nghiệp công nghệ số có vai trò quan thiết yếu trong phát triển kinh tế số, thúc đẩy nghiên cứu và phát triển làm chủ công nghệ số, nâng cao năng lực cạnh tranh và vị thế của Việt Nam. Để xây dựng nền tảng hạ tầng công nghệ số hiện đại, đáp ứng mục tiêu trên, Luật CNCNS xây dựng khuyến khích doanh nghiệp tư nhân tham gia đầu tư hạ tầng thông qua ưu đãi thuế, đất đai, và tín dụng. Nhà nước ưu tiên ngân sách cho các hạ tầng dùng chung như trung tâm dữ liệu AI, mạng 5G, và điện toán đám mây, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế số. Những giải pháp này tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững của ngành CNCNS.
Xây dựng hệ sinh thái CNCNS và thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo
Để tạo ra một hệ sinh thái CNCNS vững mạnh, bao gồm chuỗi cung ứng và công nghiệp phụ trợ, Luật khuyến khích phát triển các doanh nghiệp lớn thông qua ưu đãi đầu tư và cơ chế đặt hàng công nghệ số chiến lược. Doanh nghiệp phụ trợ nhận hỗ trợ tài chính, giảm thuế, và ưu tiên tham gia chuỗi cung ứng công nghệ số. Sự hợp tác giữa các doanh nghiệp lớn và nhỏ được thúc đẩy thông qua các chương trình kết nối và chuyển giao công nghệ, đảm bảo hệ sinh thái phát triển toàn diện, từ sản xuất đến tiêu thụ, nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam trên thị trường toàn cầu.
Để khuyến khích đổi mới và phát triển khởi nghiệp sáng tạo trong lĩnh vực công nghiệp công nghệ số, Luật CNCNS triển khai các chính sách hỗ trợ thiết thực. Doanh nghiệp vừa và nhỏ được hỗ trợ chi phí đầu tư hạ tầng, đào tạo nhân lực, và ưu tiên trong đấu thầu các dự án công. Nhà nước hỗ trợ kinh phí đổi mới công nghệ, giúp doanh nghiệp khởi nghiệp dễ dàng tiếp cận nguồn lực để hiện thực hóa ý tưởng. Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát (sandbox) cho phép doanh nghiệp thử nghiệm sản phẩm và dịch vụ mới trong phạm vi giới hạn, với sự giám sát của Nhà nước, nhằm giảm rủi ro pháp lý và tạo môi trường thuận lợi cho sáng tạo. Những giải pháp này thúc đẩy hệ sinh thái khởi nghiệp công nghệ số phát triển mạnh mẽ, đóng góp vào sự đổi mới của nền kinh tế.
(Tải toàn văn Luật Công nghiệp Công nghệ số 2025 tại đây)